Giáo hoàng

Loạt bài viết về

Lịch sử

Biên niên sử · Mười hai Tông đồ Phêrô · Phaolô Đại Ly GiáoKháng CáchCông đồng Vatican II

Đức tin

Một Thiên Chúa · Ba Ngôi Sự chết và sự phục sinhSự trở lại của Chúa Giêsu Đức Mẹ · Các Thánh

Kinh ThánhGiáo luật

Cựu Ước · Tân Ước Bộ Giáo luật

Nghi lễ và Phụng vụ

Nghi lễ Latinh · Nghi lễ Rôma Năm phụng vụ · Giờ kinh phụng vụ Bảy bí tích · Cầu nguyện

Tổ chức Giáo hội

"Duy nhất, Thánh thiện,Công giáo và Tông truyền"Tòa Thánh · Giáo hoàngGiáo phận · Giám mụcGiáo xứ · Linh mục

Văn hóa và Nghệ thuật

Thánh ca · A cappellaRomanesque · Gothic Phục Hưng · Baroque

Thành quốc Vatican

Giáo triều Rôma Hiệp ước Latêranô Giáo hoàng Phanxicô

Chủ đề Giáo hội Công giáo Rôma

Giáo hoàng (tiếng Latinh: papa, n.đ. 'người cha', tiếng Hy Lạp: πάππας, đã Latinh hoá: pappas) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô - tông đồ trưởng của Chúa Giêsu, với vai trò là người giữ chìa khóa thiên đàng, là "tảng đá" để xây dựng nên giáo hội. Giáo hoàng gần đây nhất là Phanxicô, ông qua đời vào ngày 21 tháng 4 năm 2025.

Thời gian tại vị của một giáo hoàng được gọi là "triều đại giáo hoàng", và thẩm quyền của tòa giám mục Rôma được gọi là Tòa Thánh (tiếng Latinh: Sancta Sedes), từ tiếng Latinh cho chiếc ghế hay ngai tòa của Thánh Phêrô trên cương vị là Giám mục Rôma. Tòa Thánh là thực thể có chủ quyền theo luật quốc tế mà nay đặt trụ sở tại Thành Vatican, một thành bang độc lập nằm trong lòng thành phố Roma của nước Ý. Như vậy Giáo hoàng cũng là nguyên thủ quốc gia của Thành Vatican.

Thể chế Giáo hoàng là một trong những cách tổ chức lâu đời nhất trên thế giới và đã đóng một phần nổi bật trong lịch sử nhân loại.[1] Các Giáo hoàng đã giúp Kitô giáo được truyền đi khắp nơi và giải quyết các tranh chấp về giáo lý khác nhau.[2] Thời Trung Cổ, họ có vị trí quan trọng trên chính trường Tây Âu vì thường đóng vai trò là trọng tài phán quyết giữa các quốc gia Kitô giáo.[3][4][5] Ngày nay, Giáo hoàng đã không còn nhiều quyền lực đối với các nhà nước thế tục, ông chỉ có thẩm quyền chính thức trong các vấn đề tôn giáo, ngoại trừ việc ông là người lãnh đạo Thành Quốc Vatican—quốc gia có chủ quyền trên một lãnh thổ nhỏ nhất thế giới, nằm trọn trong thủ đô Roma, nước Ý.

Bản in chữ Nôm 1869 với ba chữ thánh Pha Pha (vị trí đầu tiên của cột thứ 3 từ trái sang).

Chữ pope trong tiếng Anh xuất phát từ chữ papa trong tiếng Latinh. Đây lại là từ có gốc tiếng Hy Lạp πάππας[6] (páppas), vốn để gọi người cha trong gia đình một cách kính mến, sau được dùng để đề cập tới giám mục hoặc thượng phụ.[7] Từ đầu thế kỷ thứ 3, danh hiệu này nhìn chung được dành cho tất cả các giám mục.[8][9] Ghi chép sớm nhất dùng danh hiệu páppas theo nghĩa thượng phụ là việc đề cập tới vị Thượng phụ thành Alexandria, Heraclas trong một bức thư khoảng giữa thế kỷ thứ 3. Còn Giám mục Roma đầu tiên được gọi bằng danh hiệu papa là Giáo hoàng Marcellinô.

Ngày nay, các Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp, Nga và Serbia vẫn dùng cách gọi như thế cho các giám mục và cả linh mục, tuy nhiên, Giáo hội Công giáo Rôma chỉ sử dụng từ ngữ này dành cho vị Giám mục Rôma. Lịch sử Giáo hội Công giáo ghi nhận, Giáo hoàng Grêgôriô VII (1073-1085) là người đã chính thức giới hạn việc dùng từ "papa".

Từ "Giáo hoàng" trong tiếng Việt thực ra không dịch sát từ gốc Latinh, nó được dịch cách cảm quan để gọi một vị lãnh đạo tinh thần có quyền lực như một vị vua. Gần đây có ý kiến đề xuất trở lại dùng cách gọi Giáo tông (chữ Hán: 教宗).[10] Thông thường, các giáo hữu Công giáo Việt Nam hay sử dụng danh xưng Đức Giáo hoàng hoặc Đức thánh cha để thể hiện sự tôn kính.

Trước thế kỷ 20 từ điển tiếng Việt còn dùng Đức Giáo tôngĐại phụ Thánh hội tông để chỉ Giáo hoàng.[11] Sách chữ Nôm thì dùng Đức thánh Pha Pha.[12]

Giáo hoàng Phanxicô gần đây nhất.

Giáo hội Công giáo chia danh sách các Giáo hoàng theo thời đại chứ không theo niên đại hay thế kỷ, ứng với những sự kiện quan trọng trong lịch sử giáo hội.

  1. Thánh Phêrô (32-67).
  2. Thánh Linô (67-76).
  3. Thánh Anaclêtô (76-88).
  4. Thánh Clêmentê (88-97).
  5. Thánh Êvaristô (97-105).
  1. Giáo hoàng Gioan XXIII (từ năm 1958 đến 1963).
  2. Giáo hoàng Phaolô VI (từ năm 1963 đến 1978).
  3. Giáo hoàng Gioan Phaolô I (33 ngày năm 1978).
  4. Giáo hoàng Gioan Phaolô II (từ năm 1978 đến 2005).
  5. Giáo hoàng Biển Đức XVI (từ năm 2005 đến 2013).
  6. Giáo hoàng Phanxicô (từ năm 2013 đến 2025).
Giáo hoàng Biển Đức XVI tại một buổi tiếp kiến riêng ngày 20 tháng 1 năm 2006 ở Vatican.

Là vị Vua chuyên chế duy nhất trên thế giới ngày nay, Giáo hoàng là người được bảo vệ bởi pháp luật của Liên Hợp Quốc và các công ước quốc tế, đó là không một tòa án nào trên thế giới được xét xử Giáo hoàng một khi ông không muốn (không cho phép).[13][14][15][16] Theo Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô và là người đại diện Thiên Chúa ở trần gian, Giáo hoàng có quyền tối thượng đối với Giáo hội Công giáo Rôma của mình trên khắp thế giới; là vị chủ chăn, người Cha tinh thần của toàn bộ hơn 1,3 tỉ người Công giáo Rôma.

Chỉ có duy nhất Giáo hoàng mới có quyền bổ nhiệm các Giám mục ở mọi giáo phận trên thế giới.

Giáo hoàng được bầu bởi Mật nghị Hồng y (conclave) sau khi vị Giáo hoàng đương nhiệm qua đời hoặc từ nhiệm. Ngày nay, có lẽ Giáo hoàng là người có vị thế nhất trên Trái Đất, tiếng nói của Giáo hoàng cũng là tiếng nói có uy lực. Quyền lực của Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican, bất chấp diện tích nhỏ bé nhất địa cầu của đất nước và nền kinh tế phi thương mại duy nhất trên hành tinh, đã thâu tóm ảnh hưởng thế giới trên nhiều bình diện từ trong lịch sử xa xưa của loài người cho đến kỷ nguyên hiện đại hôm nay nhờ vào vô số những đóng góp vĩ đại xuất phát từ Giáo hội Công giáo cũng như các thành viên của họ cho nhân loại mà con người ngày nay đang thụ hưởng.[17][18][19][20]

Giáo hoàng luôn được xếp trong danh sách những người có quyền lực và ảnh hưởng nhất hành tinh do các tạp chí danh tiếng thế giới như TIME, Forbes bình chọn.[21][22][23][24][25][26][27][28] Giáo hoàng luôn nằm trong danh sách vì thỏa mãn đủ cả bốn tiêu chí căn bản của việc bình chọn, đó là, người có ảnh hưởng tới rất nhiều người; người kiểm soát một nguồn tài chính lớn; người có quyền lực lớn ở nhiều lĩnh vực khác nhau; và, người thực sự dùng quyền lực đó để thi hành chức vụ mình đảm nhiệm. Một trong những vị Giáo hoàng thời hiện đại, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, được TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất với nhân loại của thế kỷ 20 và cả những năm đầu thế kỷ 21.[29]

Tòa Thánh Vatican nhìn từ Quảng trường St. Peter's, nơi thu hút hàng chục triệu khách du lịch và người hành hương mỗi năm, là kinh đô của Giáo hội Công giáo Rôma, là nơi cư ngụ và biểu trưng quyền lực vươn ra thế giới của Tòa Thánh và các vị Giáo hoàng

Chính nhờ những cống hiến của Giáo hội Công giáo, đứng đầu là Giáo hoàng, cho nhân loại mà góp phần làm tăng thêm quyền lực thực sự cũng như các quyền lực mềm và quyền lực tinh thần cho Giáo hoàng, trong đó tiêu biểu như:[17]

Bologna, trường Đại học đầu tiên trên thế giới, được thành lập bởi sắc chỉ của Giáo hoàng Urban II năm 1088, và vẫn hoạt động cho đến ngày nay.
Viện Đại học Oxford lấy châm ngôn là Đức Chúa là Nguồn ánh sáng của tôi (tiếng Latinh: Dominus Illuminatio Mea) - Thánh vịnh 27:1, được Giáo hoàng Innôcentê IV trao hiến chương đại học qua sắc chỉ Querentes in agro năm 1254.
Cũng như các Giáo hoàng trước, Phanxicô là một học giả thần học uyên thâm và thông thạo nhiều ngôn ngữ như tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Latinh,...

Giáo hoàng được đánh giá là người được bảo vệ nghiêm ngặt nhất trên thế giới.[39]

Theo Reuters, sau Hiệp ước Lateran được ký vào năm 1929 với phần quy định về đảm bảo an ninh cho Vatican và người đứng đầu Tòa Thánh, thì bên cạnh hơn 100 Vệ binh Thụy Sĩ luôn túc trực, Giáo hoàng còn được bảo vệ bởi khoảng 2000 nhân viên thuộc các cơ quan an ninh và phản gián như CIA, FBI, đặc nhiệm và mật vụ Italia, cảnh sát Italia, đội hiến binh Vatican, các đặc vụ gián điệp chìm...[40] Khi ra nước ngoài công du, thì theo luật quốc tế, Giáo hoàng được bảo vệ bằng mọi giá bởi các cơ quan an ninh chuyên nghiệp nhất của quốc gia mà ông đến.[39][41]

Giáo hoàng là một yếu nhân có khả năng quy tụ công chúng đông đảo hiếm thấy trên thế giới. Các buổi lễ do Giáo hoàng cử hành dù ở Vatican hay ở nước ngoài đều lôi kéo được một số lượng khổng lồ các tín hữu, các nguyên thủ quốc gia và ngoại giao đoàn đến tham dự dẫn đến những lo ngại về an ninh cực lớn đối với các giới chức. Thông thường một buổi lễ hay nghi thức phụng vụ ngoài trời do Giáo hoàng chủ sự có đến hàng trăm ngàn người cho tới nhiều triệu người tham dự tùy vào địa điểm tổ chức có thể quy tụ được số lượng bao nhiêu.[42] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2011, có hơn 2 triệu người, đông gấp đôi dân số thành phố Rôma, và 23 nguyên thủ quốc gia, 5 gia đình hoàng gia châu Âu đến Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican tham dự Lễ Phong Chân phước cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II do Giáo hoàng Biển Đức XVI cử hành.[43][44] Các kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới được tổ chức 3 năm một lần cũng là dịp Giáo hoàng quy tụ hàng triệu người trẻ khắp năm châu về tham dự, dẫn đến các công tác an ninh càng được thắt chặt. Tại lễ bế mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới đầu tiên được tổ chức tại Á châu là ở Philippines vào tháng 1 năm 1995 đã có hơn 5 triệu người tham dự nghi thức do Giáo hoàng Gioan Phaolô II cử hành.[42]

Hơn hai triệu người đổ ra đường chào đón Giáo hoàng Biển Đức XVI trong chuyến công du Brazil của ông vào tháng 5 năm 2007.
Giáo hoàng
Cảnh sát và Mật vụ Hoa Kỳ hộ tống Giáo hoàng Biển Đức XVI trong chiếc Popemobile đi qua công viên Trung tâm ở New York, ngày 19 tháng 4 năm 2008.

Gần đây, như chuyến công du của Giáo hoàng Biển Đức XVI tới Israel vào tháng 5 năm 2009, quân đội nước này đã mở chiến dịch quân sự lớn chưa từng có trong lịch sử quốc gia mang tên"Chiếc Áo Choàng Trắng"(Operation White Cloak), huy động đến 80.000 nhân viên an ninh gồm mật vụ, đặc nhiệm, cơ động phản ứng nhanh, cảnh sát, binh sĩ thuộc quân đội và hàng chục ngàn nhân viên an ninh chìm, phản gián để bảo vệ người đứng đầu Tòa Thánh Vatican. Trong đó lên tới 60.000 sĩ quan cảnh sát, còn lại 20.000 là các nhân viên mật vụ, đặc nhiệm và quân đội.[39] Trước đó, hai cuộc viếng thăm cấp nhà nước của hai tổng thống Mỹ là George W. Bush và Barack H. Obama vào năm 2008 đến Israel được quốc gia này bảo đảm an ninh lần lượt bằng 3.500 và 5000 nhân viên cảnh sát, nhỏ hơn khoảng 20 lần về quy mô so với an ninh dành cho Giáo hoàng Biển Đức XVI.[39]

Trong chuyến công du vào tháng 4 năm 2008 của Giáo hoàng Biển Đức XVI tới Mỹ, để đảm bảo an toàn cho thủ lĩnh các tín đồ Công giáo,[45] tổng thống George W. Bush lúc ấy đã huy động lực lượng an ninh lên mức cao nhất theo thang sự kiện quốc gia là 15.000 cảnh sát và mật vụ, ngang bằng với an ninh mà Lầu Năm Góc áp dụng để bảo vệ các kỳ họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc với sự tham dự của hàng trăm nguyên thủ quốc gia khắp thế giới và an ninh cho lễ nhậm chức của tổng thống Barack Obama.[39][41][45]

Vào tháng 9 năm 2010, trong chuyến thăm chính thức Anh Quốc của Giáo hoàng, các giới chức chính phủ nước này cũng đã điều động một lực lượng an ninh hùng hậu lên đến gần 16.000 cảnh sát, mật vụ làm nhiệm vụ bảo vệ.[46]

Thông thường, an ninh áp dụng để bảo vệ Giáo hoàng trong các chuyến đi ra khỏi Vatican hay công du nước ngoài được thắt chặt tối đa, bao gồm: Nhân viên nhiều bộ ngành được triển khai để phân tích tổng hợp các nguy cơ và ngăn chặn, đối phó với bất kỳ cuộc tấn công khủng bố nào. Một lực lượng cảnh sát khổng lồ mặc quân phục cũng như thường phục được bố trí trên khắp các đường phố. Chó nghiệp vụ được huy động để phát hiện bom.[39] Cảnh sát phong tỏa toàn bộ giao thông và các tuyến đường, cấm mọi loại xe cộ đi lại trong những khu vực bán kính Giáo hoàng di chuyển bằng việc thiết lập"vùng đóng băng"ở các tuyến phố trung tâm. Phải có giấy phép hay vé tham dự và phải qua kiểm tra quét toàn thân trước khi được vào những nơi này. Hàng nghìn máy quay được thiết lập ở các góc đường và quảng trường. Các tay thiện xạ, bắn tỉa được bố trí trên các điểm cao.[41] Trực thăng cảnh sát tuần tiễu trên trời trong không phận Giáo hoàng hiện diện hay đi ngang qua và thiết lập vùng cấm bay bằng các chiến đấu cơ phản lực tuần tra vùng trời, vùng biển. Cảnh sát cũng triển khai các hệ thống vũ khí đất đối không. Tại các bến cảng, cảnh sát thợ lặn tuần tra dọc các con sông và bên dưới mặt nước, tàu thuyền được trang bị súng máy. Chuẩn bị cho các tấn công bất ngờ bằng vũ khí hóa học và sinh học. Hệ thống y tế lưu động cũng được thiết lập trên quy mô lớn trong trường hợp xảy ra tấn công vào Giáo hoàng hoặc đám đông.[45]

Một chuyến công du của Giáo hoàng phải mất tối thiểu hàng chục triệu đô la chi phí, và được coi là người tốn nhiều tiền nhất cho việc công du trên thế giới, hơn hẳn tổng thống các quốc gia hay các vua và nữ hoàng. Mỗi lần Giáo hoàng đi công du thì các cơ quan an ninh Vatican, và Bộ Nội vụ Italia phải phối hợp với các cơ quan an ninh nước chủ nhà để tính toán chuyến hành trình của Giáo hoàng trước đó nhiều tháng trời, thậm chí là nhiều năm. Các cơ quan này muốn có càng nhiều thời gian chuẩn bị càng tốt để hoạch định cho một chuyến đi nước ngoài như vậy của Giáo hoàng. Nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, họ phải làm việc khẩn trương. Đó cũng là lý do mà Vatican cho duy trì một bộ phận nghiên cứu bảo vệ an ninh trên diện rộng, chuyên nghiên cứu và đánh giá những mối đe dọa toàn cầu.

Từ trái sang: Tổng thống Mỹ George W. Bush, Đệ nhất phu nhân Laura Bush, các cựu tổng thống George H. W. Bush và Bill Clinton, Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice, Chánh văn phòng Nhà Trắng Andrew Card quỳ cầu nguyện trước linh cữu Giáo hoàng Gioan Phaolô II ở Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại Vatican, ngày 6 tháng 4 năm 2005.

Vào tháng 4 năm 2005, một sự kiện đảm bảo an ninh chưa từng có trong lịch sử hiện đại đã diễn ra tại Vatican. Thời điểm đó, có hơn 200 nguyên thủ quốc gia và phái đoàn ngoại giao khắp thế giới, 117 Hồng y bầu chọn Giáo hoàng mới, các nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới và gần 5 triệu tín đồ Công giáo tuôn về Vatican dự Lễ An táng Giáo hoàng Gioan Phaolô II, lễ tang lớn nhất trong lịch sử loài người và quy tụ nhiều lãnh đạo thế giới nhất. Trong đó có nhiều gia đình hoàng gia khắp năm châu, nhiều vua chúa, nữ hoàng và các nhà quý tộc. Phái đoàn của Mỹ là rầm rộ nhất với 3 vị tổng thống George W. Bush, George H. W. Bush, Bill Clinton, ngoại trưởng Condoleezza Rice, đệ nhất phu nhân Laura Bush và Tổng thư ký Liên hiệp quốc Kofi Annan. Điều này khiến cho Hồng y Đoàn, có nhiệm vụ điều hành Vatican khi Giáo hoàng băng hà, lo ngại và yêu cầu sự giúp đỡ từ bên ngoài. Vì tang lễ của cố Giáo hoàng, cơ mật viện bầu Giáo hoàng mới và lễ đăng quang của tân Giáo hoàng sẽ biến Vatican thành mục tiêu của khủng bố.[47][48]

Bản đồ các quốc gia (màu tím) có nguyên thủ quốc gia, hoàng gia và phái đoàn ngoại giao chính thức đến dự tang lễ Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Vatican.

Trước tang lễ vào sáng thứ sáu ngày 8 tháng 4 năm 2005, NATO và không quân Italia (Aeronautica Militare Italiana) đã cho thiết lập vùng cấm bay trên không phận toàn thành phố Rôma và bán kính 5 dặm xung quanh đó. Các máy bay chiến đấu cường kích có gắn tên lửa hành trình và tên lửa không đối không cùng hệ thống tên lửa không đối đất của NATO được triển khai. Dưới mặt đất quân đội cũng lắp đặt các hệ thống tên lửa phòng thủ, bệ phóng tên lửa chống hạm và đất đối không xung quanh thành phố Vatican với sự cho phép miễn cưỡng của Hồng y Đoàn vì tình thế quá khẩn trương. Dọc bờ biển Địa Trung Hải, các tàu chiến của hải quân Italia (Marina Militare) được bố trí tuần tra ngày đêm cùng hệ thống tàu ngầm có ngư lôi tìm diệt và tên lửa hành trình. Trên các con sông bao bọc thành phố Rôma, cảnh sát tuần tra dày đặc bằng thuyền máy và canô, nhất là dòng sông Tiber huyền thoại chảy ngang qua Vatican. Hơn 1000 tay súng bắn tỉa được lệnh án ngữ mọi điểm cao và hỗ trợ cho hàng chục ngàn cảnh sát rà phá bom mìn trên đường phố. Các trực thăng chiến đấu và trinh sát cũng được huy động để quan sát, bảo vệ Rôma từ trên không. Rôma với 2 triệu người dường như quá tải bởi dòng người gấp 3 lần dân số của nó đổ về. Chiều hôm trước ngày lễ an táng, chính phủ đã cho đóng cửa 2 sân bay bận rộn nhất nước là sân bay quốc tế Leonardo da Vinci (Fiumicino) và sân bay quân sự Ciampino ở Rôma. Các tuyến tàu điện ngầm và xe buýt cũng bị buộc phải ngưng hoạt động đến hết lễ tang.[47][49][50][51]

Những biện pháp an ninh trên cũng được áp dụng cho lễ đăng quang của Giáo hoàng Biển Đức XVI vào ngày 24 tháng 4 năm 2005.

Giáo hoàng với Triều thiên Ba tầng (Papal Tiara) tượng trưng cho việc cai quản, Thánh hóa, chăm sóc các tín hữu. Gậy Mục tử (Crosier) tượng trưng cho quyền bính. Dây pallium được làm bằng lông cừu để nói lên Giáo hoàng là chủ chiên lành thay Chúa Kitô vác chiên trên vai; nhẫn Ngư phủ (Ring of the Fisherman) trên mặt có hình Thánh Phêrô đang đánh cá. Khi Giáo hoàng băng hà thì nhẫn đó được Hồng y nhiếp chính đập vỡ đi để tránh giả mạo.

Mỗi triều đại Giáo hoàng đều có biểu tượng và huy hiệu riêng. Tuy nhiên, biểu tượng và huy hiệu của Tòa Thánh và Quốc gia Vatican thì chỉ có một.

Các Giáo hoàng phát biểu hoặc đưa ra các tài liệu theo từng loại để nhận biết với từng mức độ thẩm quyền và ảnh hưởng chung đến giáo hội. Các văn kiện đó phải bởi chính Giáo hoàng chứ không phải bởi một người trung gian nào ghi nhận.

Giáo hoàng
Piô IX, không tính Thánh Phêrô, ông được coi là vị giáo hoàng có thời gian trị vì dài nhất

Danh sách các Giáo hoàng có thời gian trị vì dài nhất được xác định từ các tài liệu lịch sử được thống kê như sau:

  1. Piô IX (1846-1878): 31 năm, 7 tháng và 23 ngày (11.560 ngày).
  2. Gioan Phaolô II (1978-2005): 26 năm, 5 tháng và 18 ngày (9665 ngày).
  3. Lêô XIII (1878-1903): 25 năm, 5 tháng và 1 ngày (9.281 ngày).
  4. Piô VI (1775-1799): 24 năm, 6 tháng và 15 ngày (8.962 ngày).
  5. Adrian I (772-795): 23 năm, 10 tháng và 25 ngày (8.729 ngày).
  6. Piô VII (1800-1823): 23 năm, 5 tháng và 7 ngày (8.560 ngày).
  7. Alexander III(1159-1181): 21 năm, 11 tháng và 24 ngày (8.029 ngày).
  8. Sylvester I (314-335): 21 năm, 11 tháng và 1 ngày (8.005 ngày).
  9. Lêô I (440-461): 21 năm, 1 tháng, và 13 ngày (7.713 ngày).
  10. Ubanô VIII (1623-1644): 20 năm, 11 tháng và 24 ngày (7.664 ngày).

Mặc dù một số tài liệu cho rằng Thánh Phêrô trị vì trong khoảng 30 năm (sau 29 - 64? / 67?) nhưng tính cho đúng thì những tài liệu này thiếu chính xác nên tên của ông không được liệt kê ở đây.

Bên cạnh đó có những Giáo hoàng có thời gian trị vì rất ngắn chưa tới một tháng. Vì vậy, nếu triều đại của một Giáo hoàng được bắt đầu vào ngày 1 tháng 8 và qua đời vào ngày 2 tháng 8, thì triều đại của vị Giáo hoàng này sẽ được tính là 2 ngày.

  1. Ubanô VII (15 tháng 9 - 27 tháng 9 năm 1590): 13 ngày, mất trước khi đăng quang.
  2. Boniface VI (tháng 4 năm 896): 16 ngày.
  3. Celestine IV (25 tháng 10 - 10 tháng 1 1241): 17 ngày.
  4. Theodore II (tháng 12 năm 897): trong 20 ngày.
  5. Sisinnius (15 tháng 1 - 4 tháng 2 năm 708): 21 ngày.
  6. Marcellus II (9 tháng 4 -1 tháng 5 năm 1555): 22 ngày.
  7. Đamaxô (17 tháng 7 - 9 tháng 8 năm 1048): 24 ngày.
  8. Piô III (22 tháng 9 - 18 tháng 10 năm 1503): 27 ngày.
  9. Lêô XI (1 tháng 4 - 27 tháng 4 năm 1605): 27 ngày.
  10. Biển Đức V (22 tháng 5 - 23 tháng 6 năm 964): 33 ngày.
  11. Gioan Phaolô I (26 tháng 8 - 28 tháng 9 năm 1978): 33 ngày.

Stêphanô (23 tháng ba - 26 tháng ba, 752) mất đột ngột sau khi được bầu làm Giáo hoàng ba ngày, và trước khi được tấn phong làm Giám mục. Ông đã không được công nhận là Giáo hoàng hợp lệ nhưng đã được thêm vào danh sách ''Catholic encyclopedia'' với tông hiệu là Stêphanô II. Chính điều này đã gây khó khăn cho việc liệt kê các Giáo hoàng có tên Stêphanô sau đó. Tên của ông đã bị loại bỏ khỏi danh sách các Giáo hoàng do nghị quyết của Vatican vào năm 1961.

Giáo hoàng có nhiều danh xưng khác nhau[52]. Các tước hiệu chính thức của Giáo hoàng theo thứ tự xuất hiện trong Annuario Pontificio (Niên giám Tòa Thánh) là:

Giám mục Rôma, Đại diện Chúa Kitô, Đấng kế vị thủ lĩnh các Tông đồ, Thượng Giáo chủ của Giáo hội Hoàn vũ, Giáo trưởng Italia, Tổng Giám mục và Đô thành trưởng Giáo tỉnh Rôma, Quốc vương Vatican, Tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa.[53]

Ngoài ra, Bộ Giáo Luật (x. Canon 331) còn ghi những danh xưng khác như:

Tước hiệu"Giáo hoàng"cũng được sử dụng. Khi ký tên trong các văn kiện, Giáo hoàng thường dùng dạng tắt của"Papa"là"PP."đứng trước số, chẳng hạn"Benedictus PP. XVI"(Giáo hoàng Biển Đức XVI).

Giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội Công giáo Rôma là Thánh Phêrô, tông đồ trưởng của Chúa Giêsu. Giáo hoàng đương nhiệm là giáo hoàng Phanxicô, người kế vị giáo hoàng Biển Đức XVI sau khi ông từ chức, trước đó đã có 263 người được nhận chức Giáo hoàng.

Link nội dung: http://thoitiet247.edu.vn/lich-hoang-dao-a50734.html