Đơn vị:

24 bài thơ về kháng chiến anh hùng bất khuất

Dân tộc ta đã phải mất 30 năm chiến đấu kiên cường trước Pháp và Mỹ (1945-1975) mới thành công giành lại tự do. Trong giai đoạn ấy đã có vô vàn những bài thơ về kháng chiến được ra đời. Những vần thơ về kháng chiến luôn mang sự hùng hồn, mạnh mẽ và ý chí quyết tâm sắt đá. Đó không chỉ là lời tuyên thệ sẵn sàng hy sinh vì đất nước, mà còn là những nỗi đau, là lòng biết ơn mà những người ở lại nguyện viết nên vì những anh hùng dân tộc.

Thơ về kháng chiến chống Pháp

Những bài thơ về người lính kháng chiến chống Pháp, được viết nên ngay trong thời kỳ rối ren và nguy hiểm nhất. Ở đó có ý chí hừng hực của tuổi trẻ, có sự quyết đoán và dứt khoát của những vị anh hùng thời chiến.

Thời kỳ kháng chiến chống lại thực dân Pháp, là một trong những thời kỳ lịch sử đau buồn nhất của dân tộc ta. Tuy nhiên, đó cũng là lúc hàng ngàn, hàng vạn anh hùng Việt Nam nguyện ý quên mình, sẵn sàng cống hiến sinh mạng vì độc lập tự do của dân tộc.

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (Tác giả: Tố Hữu)

Tin về nửa đêm Hỏa tốc hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc chạy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn đỏ lửa...

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp! Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại!

Kháng chiến ba nghìn ngày Không đêm nào vui bằng đêm nay Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực Trên đất nước, như huân chương trên ngực Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùng Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta Đêm nay bè bạn gần xa Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! Những đồng chí, thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão, Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm. Những bàn tay xẻ núi, lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện.

Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến Mấy tầng mây, gió lớn mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn, xương tan thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.

tho-ve-khang-chien-voh-1

Hỡi các chị, các anh Trên chiến trường ngã xuống! Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng: Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.

Lũ chúng nó phải hàng, phải chết, Quyết trận này quét sạch Điện Biên! Quân giặc điên Chúng bay chui xuống đất Chúng bay chạy đằng trời? Trời không của chúng bay Đạn ta rào lưới sắt! Đất không của chúng bay Đai thép ta thắt chặt! Của ta trời đất đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta! Chúng bay chỉ một đường ra: Một là tử địa, hai là tù binh. Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm! Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy Trên đầu bay, thác lửa hờn căm! Trông: Bốn mặt, luỹ hầm sập đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Điện Biên toàn thắng! Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Tiếng reo núi vọng sông rền Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ Bác đang cúi xuống bản đồ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo... Từ khi vượt núi qua đèo Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày Tin về mừng thọ đêm nay Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông.

Đồng chí Phạm Văn Đồng Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành. Ngày mai, vào cuộc đấu tranh Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít Anh sẽ nói: “Thực dân, phát-xít Đã tàn rồi! Tổ quốc chúng tôi Muốn độc lập, hoà bình trở lại Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái Nước chúng tôi và nước các anh. Nếu còn say máu chiến tranh Ở Việt Nam, các anh nên nhớ Tre đã thành chông, sông là sông lửa. Và trận thắng Điện Biên Cũng mới là bài học đầu tiên! (Năm 1954)

Cá nước (Tác giả: Tố Hữu)

Tôi ở Vĩnh Yên lên Anh trên Sơn Cốt xuống Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi.

Anh là Vệ quốc quân Tôi là người cán bộ Hai đứa mỏi nhừ chân Nghỉ hơi ngồi một chỗ.

Gặp nhau mới lần đầu Họ tên nào có biết? Anh người đâu, tôi đâu Gần nhau là thân thiết.

Một thoáng lặng nhìn nhau Mắt đã tìm hỏi chuyện Đôi bộ áo quần nâu Đã âm thầm thương mến.

Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!

Tôi nhích lại gần anh Người bạn đường anh dũng Anh chiến sĩ hiền lành Tỳ tay trên mũi súng.

Anh kể chuyện tôi nghe Trận chợ Đồn, chợ Rã Ta đánh giặc chạy re Hai đứa cười ha hả.

Rồi Bông Lau, Ỷ La Ba trăm thằng tan xác Cành cây móc thịt da Thối inh rừng Việt Bắc.

Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước.

Mồm anh nở rất tươi Mặt anh vàng thắm lại Cánh đồng quê tháng mười Thơm nức mùa gặt hái...

Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già: “Cháu ơi cháu lớn vái bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về

Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau Bố đi đánh giặc còn lâu Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày”

Anh có nghe thấy không Ơi người anh Vệ quốc?

Chắc có lúc lòng anh Nhớ nhà anh nhớ lắm Ơi người bạn hiền lành Mắt nhìn xa đăm đắm...

Trưa nay trên đèo cao Ta say sưa vài phút Chia nhau điếu thuốc lào Nào anh hút tôi hút.

Rồi lát nữa chia đôi Anh về xuôi tôi ngược Lòng anh và lòng tôi Mang nặng tình cá nước... (Năm 1947)

tho-ve-khang-chien-voh-2

Đồng chí (Tác giả: Chính Hữu)

Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá, chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. (Năm 1948)

Tây Tiến (Tác giả: Quang Dũng)

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp, Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy, Có thấy hồn lau nẻo bến bờ? Có nhớ dáng người trên độc mộc, Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu, anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. (Năm 1948)

tho-ve-khang-chien-voh-3

Ngày về (Tác giả: Chính Hữu)

Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội Bao giờ trở lại? Phố phường xưa gạch ngói ngang đường

Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa

Mái đầu xanh thề mãi đến khi già Phơi nắng gió. Và hoa ngàn cỏ dại Nghe tiếng gọi của những người Hà Nội Trở về, trở về, chiếm lại quê hương

Nguy nga sao cái buổi lên đường Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc A ha! nhà xiêu mái sập Xác oan cừu ngập lối chân đi

Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp Mịt mù khói ngợp Cờ máu huy hoàng

Phất nắng Ôi bài chiến thắng reo vang. (Năm 1947)

Bao giờ trở lại (Tác giả: Hoàng Trung Thông)

Các anh đi Ngày ấy đã lâu rồi Xóm làng tôi còn nhớ mãi Các anh đi Bao giờ trở lại Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong Làng tôi nghèo Nho nhỏ bên sông Gió bấc lạnh lùng Thổi vào mái rạ Làng tôi nghèo Gió mưa tơi tả Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi Các anh về mái ấm nhà vui Tiếng hát câu cười Rộn ràng xóm nhỏ Các anh về tưng bừng trước ngõ Lớp đàn em hớn hở theo sau Mẹ già bịn rịn áo nâu Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về Từ lưng đèo Dốc núi mù che Các anh về Xôn xao làng tôi bé nhỏ Nhà lá đơn sơ Nhưng tấm lòng rộng mở Nồi cơm nấu dở Bát nước chè xanh Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau Anh giờ đánh giặc nơi đâu Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên Làng tôi thắng lợi vụ chiêm Lúa thêm xanh ngọn, khoai lên thắm vồng Giảm tô hai vụ vừa xong Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường Dẫu rằng núi gió đèo sương So máu anh nhuộm chiến trường thấm chi

Bấm tay tính buổi anh đi Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về? Lúa xanh xanh ngắt chân đê Anh đi là để giữ quê quán mình Cây đa, bến nước, sân đình Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường Hoa cau thơm ngát đầu nương Anh đi là giữ tình thương dạt dào

Các anh đi Khi nào trở lại Xóm làng tôi Trai gái vẫn chờ mong Chờ mong chiến dịch thành công Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ Anh đi chín đợi mười chờ Tin thường thắng trận, bao giờ về anh? (Năm 1955)

Đất nước (Tác giả: Nguyễn Đình Thi)

Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha! Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về! Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Từ những năm đau thương chiến đấu Ðã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Ðã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc Tây, thằng chúa đất Ðứa đè cổ, đứa lột da...

Xiềng xích chúng bay không khóa được Trời đầy chim và đất đầy hoa Súng đạn chúng bay không bắn được Lòng dân ta yêu nước thương nhà!

Khói nhà máy cuộn trong sương núi Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng Ôm đất nước những người áo vải Ðã đứng lên thành những anh hùng.

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa. (Năm 1948)

tho-ve-khang-chien-voh-4

Núi Đôi (Tác giả: Vũ Cao)

Bảy năm về trước, em mười bảy Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi Em vẫn đùa anh: sao khéo thế Núi chồng núi vợ đứng song đôi!

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới Ngơ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.

Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình năm lại năm Mấy bận dân công về lại hỏi Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?

Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi Mỗi tin súng nổ vành đai địch Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở Trung du làng nước vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi.

Mới tới đầu ao, tin sét đánh Giặc giết em rồi, dưới gốc thông Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa Em sống trung thành, chết thuỷ chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông bờ có con đường quen. Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo: Em còn trẻ lắm, nhất làng trong; Mấy năm cô ấy làm du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Từ núi qua thôn, dường nghẽn lối Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao, nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay

Cha mẹ đưa nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau Nứa gianh nửa mái lều che tạm Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ: Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ. Oán thù còn đó, anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục Đã chết vì dân giữa đất này!

Ai viết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau anh gọi em: đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm. (Năm 1955)

tho-ve-khang-chien-voh-5

Bên Kia Sông Đuống (Tác giả: Hoàng Cầm)

Em ơi! Buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm đồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Tràm chỉ người giăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa màu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo Xì xồ cướp bóc Tan phiên chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp trên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu? Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống - Con là ai? - Con ở đâu về?

Hé một cánh liếp - Con vào đây bốn phía tường che Lửa đèn leo lét soi tình mẹ Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể Những chuyện muôn đời không nói năng Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao loé giữa chợ Gậy lùa cuối thôn Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn Ăn không ngon Ngủ không yên Đứng không vững Chúng mày phát điên Quay cuồng như xéo trên đống lửa Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa Tiếng bà ru cháu buổi trưa Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu "À ơi... cha con chết trận từ lâu Con càng khôn lớn càng sâu mối thù" Tiếng em cắt cỏ hôm xưa Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay "Thân ta hoen ố vì mày Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu Cánh đồng im phăng phắc Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay Mỗi đêm một lần mở hội Trong lòng con chim múa hoa cười Vì nắng sắp lên rồi Chân trời đã tỏ Sông Đuống cuồn cuộn trôi Để nó cuốn phăng ra bể Bao nhiêu đồn giặc tơi bời Bao nhiêu nước mắt Bao nhiêu mồ hôi Bao nhiêu bóng tối Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh. (Năm 1948)

Xem thêm: 25 bài thơ về Đảng sâu sắc, tràn đầy tình yêu quê hương đất nước 24 bài thơ về kháng chiến anh hùng bất khuất 26 bài thơ về anh hùng liệt sỹ chân thành, xúc động

Thơ về kháng chiến chống Mỹ

Sau khi trải qua nhiều năm gian khổ, dân tộc Việt Nam lại phải tiếp tục chiến đấu chống lại sự xâm lược của Đế Quốc Mỹ. Lúc này, với sự thành công đã đạt được cộng với niềm tin sắt đá vào sự dẫn dắt của Đảng, những bài thơ về kháng chiến chống Mỹ cũng được thổi thêm một làn gió mới.

Thơ về thời kỳ kháng chiến chống Mỹ vẫn nhuốm đậm màu sắc đau buồn, thế nhưng trong đó lại lóe lên những tia hy vọng. Ở đó, những lời hứa hẹn đầy chắc chắn về một ngày mai tươi sáng được cất lên, bởi lẽ nền độc lập tự chủ của Việt Nam đã và đang gần ngay trước mắt.

Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây (Tác giả: Phạm Tiến Duật)

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Ðường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn đông với Trường Sơn tây

Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa khí trời cũng khác Như anh với em như nam với bắc Như đông với tây một dải rừng liền

Trường Sơn tây anh đi, thương em Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài tay áo Rau hết rồi, em có lấy măng không?

Em thương anh bên tây mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ Chắc em lo đường chắn bom thù

Anh lên xe trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư

Ðường sang tây không phải đường thư Ðường chuyển đạn và đường chuyển gạo Ðông Trường Sơn, cô gái "Ba sẵn sàng" xanh áo Tây Trường Sơn, bộ đội áo màu xanh

Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Ðông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn. (Năm 1969)

tho-ve-khang-chien-voh-6

Dáng đứng Việt Nam (Tác giả: Lê Anh Xuân)

Anh - niềm tự hào của tổ quốc Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công Anh tên gì hỡi Anh yêu quý Anh vẫn đứng lặng im như bức tường đồng Như đôi dép dưới chân Anh dẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sĩ giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. (Năm 1968)

Cuộc chia ly màu đỏ (Tác giả: Nguyễn Mỹ)

Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ Tươi như cánh nhạn lai sắc hồng Trưa một ngày sắp ngả sang đông Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ

Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa Chồng của cô sắp sửa đi xa Cùng đi với nhiều đồng chí nữa

Chiếc áo đỏ rực như than lửa Cháy không nguôi trước cảnh chia ly Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy. Không che được nước mắt cô đã chảy

Những giọt long lanh nóng bỏng sáng ngời Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi Và rạng đông đang bừng trên nét mặt - Một rạng đông với màu hồng ngọc

tho-ve-khang-chien-voh-7

Cây si xanh gọi họ đến ngồi Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai Ngày mai sẽ là ngày sum họp Ðã tỏa sáng những tâm hồn cao đẹp! Nắng vẫn còn ngời trên những lá cây si

Và người chồng ấy đã ra đi... Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào

"Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau..." Tôi biết cái màu đỏ ấy Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp Một làng xa giữa đêm gió rét... Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi Như không hề có cuộc chia ly... (Năm 1964)

Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Tác giả: Phạm Tiến Duật)

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái

Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi Ðã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. (Năm 1969)

Người cắt dây thép gai (Tác giả: Hoàng Nhuận Cầm)

Dây thép gai con cò không đậu được Nghe tiếng ru hời, sao cò cứ bay xa. Anh cắt chúng đi cho con cò bay lại Trong đêm khuya, tiếng vỗ cánh trên đầu.

Thương cây cùng thương đất như nhau, Nên anh khóc khi nhìn cây nhựa chảy. Con sông gẫy và nhịp cầu cũng gẫy Ðâu bóng em anh chải tóc hàng ngày.

Cánh cò bay... cánh trắng... con cò bay Gió từ cánh con cò nào thổi dậy. Ðất nước mình bao năm chia cắt đấy Anh nói gì trong hai bàn tay

Và rơi xuống hàng rào thứ nhất! Cỏ lại hát những lời riêng của đất Nhựa lại về nối lại những cành cây Cò ơi... về đây!... Ðừng bay, đừng bay.

Anh đã cắt đến hàng rào thứ hai Nhịp cầu gẫy bây giờ chưa liền lại Ðấy là nhịp cầu sang nhà bạn gái Có bóng em anh soi xuống hiền hòa.

Anh đã cắt sang hàng rào thứ ba Con sông đứt khúc bây giờ lại chảy Bong bóng mưa và những con cá nhảy Tôm búng càng kỷ niệm mãi ngân rung...

Ðã cắt đến hàng rào cuối cùng. Các đồng chí ơi, xung phong! Người cắt dây thép gai đã cắt xong Ðứng dậy nghe đất nước núi sông mình Bao năm cắt chia đang liền lại. (Năm 1971)

tho-ve-khang-chien-voh-8

Quê hương (Tác giả: Giang Nam)

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: “Ai bảo chăn trâu là khổ?” Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Những ngày trốn học Đuổi bướm cầu ao Mẹ bắt được… Chưa đánh roi nào đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích…

***

Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ tôi đi Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!) Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại… Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…

***

Hoà bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa… Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!) Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng…

Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi… Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. (Năm 1960)

tho-ve-khang-chien-voh-9

Xem thêm: Cap về tình yêu người lính hài hước và cảm động 24 bài thơ về lòng yêu nước hào sảng, khí thế 47 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về lòng yêu nước

Tổng hợp những bài thơ hay về kháng chiến được viết sau 1975

Đã nhắc đến thơ về kháng chiến, thì không thể bỏ qua những áng thơ đầy tình cảm và xúc động về hình ảnh người lính. Những người lính đã ngã xuống và cả những người còn ở lại, tất cả họ đều là niềm tự hào, là anh hùng của dân tộc ta.

Bạn có thể tìm thấy những hình ảnh rất đỗi bình dị và gần gũi về người lính qua thơ về kháng chiến. Đồng thời qua đó, ta cũng có thể cảm nhận được nỗi đau của những người mẹ anh hùng dân tộc, thấu hiểu được phần nào những hy sinh và đau đớn của họ.

Khoảng lặng yên tháng tư (Tác giả: Ngô Thế Oanh)

Tôi chưa bao giờ gặp đâu một bầu trời như thế Bầu trời trong cao rộng khác thường Những hàng me vừa mùa thay lá Sắc xanh non tuôn sáng những bờ đường

Sau cơn mưa thành phố như gương Lấp lánh những tường nhà khuôn mặt Những lá cờ trên những ô cửa sổ đỏ tươi Những lá cờ... Không hiểu sao tôi bỗng rưng nước mắt

Mặt trời thật giản dị trên cao Quân phục đẫm mồ hôi bụi khát Những vòm sao cao vút trên đầu Cụm mây trắng tinh di động về đâu Đồng đội của tôi đồng đội của tôi Nói gì được nữa đây trong buổi mai toàn thắng Bỗng thấm thía hơi ấm bàn tay bạn Đất dịu mát dưới chân không sao thốt lên lời

Khoảnh khắc thành phố đường lặng yên Lặng yên hàng cây Lặng yên vòm trời Lặng yên những căn nhà Lặng yên những lá cờ trong nắng Lặng yên nét cười thắm sâu mắt bạn

Khoảnh khắc thành phố như mặt biển Rồi tất cả trào lên cuồn cuộn thủy triều. (Năm 1975)

Về với mẹ thôi (Tác giả: Cao Hùng Cường)

Hoà bình rồi, ta về với mẹ thôi... Con đang đợi, vợ đang chờ bên cửa Bên gia đình, đón bao niềm vui nữa Cùng xóm làng, nhen ngọn lửa tình người.

Hoà bình rồi, đời lại rộn tiếng cười Cuộc sống yên vui, sáng ngời đôi mắt Đồng đội tìm nhau, niềm vui gặp mặt Ta lại cùng nhau, hái nhặt yêu thương.

Ôi hoà bình, hai tiếng tưởng xa xôi Đến bất chợt, niềm vui sao nhanh quá Những mất mát, đau thương không thể xóa Theo mãi trong đời, người lính chúng ta...

Xin đặt lên mộ Đồng đội, những vòng hoa Những chiến công, dành các anh tất cả Cuộc sống sau này, bộn bề vất vả Không thể quên, người đã ngã hôm nay... (Năm 1975)

tho-ve-khang-chien-voh-10

Thư gửi mẹ (Tác giả: Trần Đăng Khoa)

Nỗi lòng gửi mẹ Mẹ ơi, có thể trong cuộc chiến đấu này Con sẽ ngã xuống Ngã xuống bình thường

Như bao đồng đội của con Để mái nhà gianh mẹ được yên ả Dưới sắc nắng vàng... Và, có thể là, sáng mai bừng mắt ra

Mẹ sẽ nhận về một tờ giấy Như nhiều bà mẹ ở làng Tờ giấy mỏng manh Nhưng lại nặng hơn ngàn tấn bom

Trút xuống tuổi già của mẹ Cho dù thế, mẹ cũng đừng khóc nhé Con không chết đâu Xin mẹ cứ đọc Kiều

Cho căn nhà trở lại yên tĩnh Dưới bóng cây bảng lảng hoàng hôn Xin mẹ cứ ngồi tựa cửa chờ con Như những ngày xưa

Mỗi chiều đi học về Và mẹ lại lắng nghe Tiếng bước chân bầy trẻ nhỏ Chúng ôm sách, bá vai nhau, rúc rích cười

Đi ngang qua cửa sổ Đi ngang qua chiều Yên tĩnh Và đêm xuống

Đầy nhà Đầy vườn Đầy cả bầu trời... Đêm ấm áp và mượt như lụa

Xin mẹ đừng khép cửa Để gió vào Gió hát trong căn nhà của mẹ Những khao khát của trời mây

Và mẹ sẽ thiếp đi lúc nào không hay Đến nỗi mẹ chẳng biết được Thằng con trai mẹ về Trong làn gió mát

Làn gió đã đi khắp trái đất Hát ru những bà mẹ không con... (Năm 1979)

Lính chiến gặp nhau (Tác giả: Nguyễn Đình Huân)

Hơn bốn chục năm sóng gió phong ba Cả hai anh vẫn cứ là chiến sĩ Như ngày xưa bên nhau thời đánh Mỹ Rừng Trường Sơn thành Quảng Trị năm xưa.

Những người lính đã từng trải nắng mưa Có những trận đánh như đùa mà thắng Nay gặp nhau hai mái đầu bạc trắng Vẫn vẹn tròn với nghĩa nặng tình quê.

Nhớ cánh cò nơi xóm nhỏ chân đê Bến sông xưa ai đã thề yêu mãi Nụ hôn đầu trao cho cô bạn gái Hẹn ngày về mùa hoa cải vàng bông.

Chẳng nhắc về những đóng góp chiến công Nhắc đồng đội những đứa không còn nữa Nằm lại rừng sâu một thời khói lửa Những anh hùng mãi mãi thuở hai mươi.

Khi chia tay ôm nhau nở nụ cười Thắm thiết như xưa của người lính chiến Hào sảng vô tư thiệt tình lưu luyến Hai người lính già mãn nguyện bên nhau. (Năm 2018)

tho-ve-khang-chien-voh-11

Nghĩa trang trong rừng đước (Tác giả: Nguyễn Duy)

Ðắp cho anh nấm đất mặn nơi này Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn Xót thịt xót xương, xót người nằm xuống Thủy triều lên nấm mộ cũng ngập chìm

Rừng đước này chưa bao giờ lặng im Lấn ra biển suốt ngàn năm bão táp Người đất này chưa một ngày bình yên Sống lau lách cả trăm năm giữ đất

Người còn sống đi đón người đã khuất Xuống ghe đưa các anh về nghĩa trang Từ hoang vắng mọi ngả rừng, gốc rạch Các anh về đây ở thành xóm thành làng.

Mút mắt là biển khơi và rừng đước đại ngàn Cồn cào gió và cồn cào sóng vỗ Gốc đước già tạc mộ chí cho anh Có đá của lòng người trong thớ gỗ.

Hàng chữ đọng sơn như mắt người ứa lệ Như mắt người nhìn nhau Như lời ai rơm rớm trên hàng hàng bia mộ Có những người không quê ở Cà Mau! (Năm 1977)

Có một thời như thế (Tác giả: Trần Bá Căn)

Có một thời như thế chẳng hề quên Là người lính - người quân nhân cách mạng Dẫu chiến tranh nhưng tâm hồn lãng mạn Dấu tâm tình trong đáy cóc ba lô.

Có một thời cháy bỏng những mùa khô Rừng Tây Nguyên cây trút tàn chiếc lá Còn vũng nước cũng tranh nhau vội vã Thú với người tranh thủ uống thay nhau.

Rất nhiều lần nén chặt nỗi buồn đau Khi đồng đội máu tuôn trào gục xuống Trong chiến tranh dẫu rằng không ai muốn Vì biên cương mà chấp nhận hy sinh.

Có một thời vì tổ quốc quên mình Vẫn nhớ thương một bóng hình kiều nữ Vẫn khát khao một tình yêu lắm chứ ! Bởi bản năng tạo hoá đã ban rồi.

Có một thời để nhớ mãi trong tôi Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.

Có một thời... Đồng đội mãi gọi tên....!

Bộ đội màu xanh (Tác giả: Phan Huy Hùng)

Cơn mưa rừng suối khe hung dữ Quét tan nhà cửa, chia cắt dân Các anh áo xanh màu Tổ quốc Hàn đắp vết thương nối xóm làng.

Sao trên mũ tỏa ánh hào quang Như năm ngón tay Bác Hồ chỉ lối Dân như nước nuôi cá bộ đội Không một ai có thể tách rời!

Hoà bình giặc núp khắp mọi nơi Lấp niềm tin bao người lạc hướng Màu áo xanh gieo mầm sự sống Tình quân dân càng đẫm sắc màu.

Đánh giặc nội xâm không súng gươm Bằng nhân nghĩa, trái tim trong sạch Những quốc nạn dần dần lẩn tránh Bộ đội vì dân khi Tổ quốc cần …

Các anh là trụ cột của thời gian Bộ đội áo xanh không phai màu đất nước Trái tim yêu máu căng lồng ngực Bám đất, giữ trời sáng rực tuổi Xuân!

Lý ngựa ô ở hai vùng đất (Tác giả: Phạm Ngọc Cảnh)

Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu

Hóa vô tận bao điều mơ tưởng ấy Bao câu hát ông cha mình gởi lại Sao em thương câu lý ngựa ô này Sao anh nghe đến lần nào cũng vậy Sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy Chỉ riêng mình em hát với anh đây.

Làng anh ở ven sông Sắp vào tháng tư Mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng Mùi hương xông nụ cười lên nhẹ bổng Ai chẳng ngỡ mình đang đi trong mây Ai chẳng tin mình đang rong ngựa sắt Cả một vùng sông ai chẳng hát Sao không nghe câu lý ngựa ô này.

Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say Qua phá rộng duềnh doàng lên gợn sóng Qua truông rậm Đến bây giờ anh buộc võng Gặp mối dây buộc ngựa gốc lim già Suốt miền trung sông suối dày tơ nhện Suốt miền trung núi choài ra biển Nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua.

Anh đa tình nên cứ muốn lần theo Xấu hổ gì đâu mà anh giấu diếm Đêm đánh giặc mịt mù cao điểm Vạch lá rừng nhìn xuống quê em Mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý Khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ Lý ngựa ô hát đến mê người Mỗi bước mỗi bồn chồn về đó em ơi.

Hay vì làng anh ở ven sông Những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng Đã hát quen lý ngựa ô rồi Khen câu miền trung qua truông dài phá rộng Móng gõ mặt thời gian gõ trống Khen câu miền nam như giục như mời Ngựa tung bờm bay qua biển lúa Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa Tiếng hí chào xa khơi... Hay em biết quê anh ngoài đó Câu hát bắc cầu qua một thời quan họ Câu hát xui nhau nên vợ nên chồng Lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc Có điều gì như thể ẩn vào trong?

Em muốn về hội Gióng với anh không Để anh khoe với họ hàng câu lý ấy Em muốn làm dâu thì em ở lại Lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi Đồng đội của anh đã trọn mùa thắng giặc Cũng sắp về chia vui. (Năm 1976)

Giặt áo trên sông Bạch Ðằng (Tác giả: Thi Hoàng)

Thắng Mỹ trận cuối cùng Ta ra sông giặt áo Với sức nước nở nang Với tấm trời cao ráo Thật mà sao kỳ ảo Con thuyền ơi, con thuyền!

Giặt áo nào anh em Hôm nay trời nắng đẹp Nắng từ bể đông lên Nước từ nguồn chảy xuống

Quân Nguyên, quân Nam Hán Ở ngược dòng thời gian Những cái chết lưu vong Nói gì trong cát lấm Phía Tràng Kênh đá ngóng Phía Thủy Nguyên lúa vời

Chỉ dòng nước trôi thôi Lòng sông thì vẫn đó Tấm áo đầy bụi đường Những tháng năm gian khổ

Giặt nước sông Bạch Ðằng Gửi dòng sông bụi đỏ Nhận của sông lịch sử Ðể không quên, đừng quên Ðể thấm trong vải mềm Một dòng sông tâm khảm

Bờ gió và bờ nắng Hong đều cho áo khô Thấy trời đất rộng xa Khi mặc vào tấm áo

Hồn nước non thơm thảo Như phù sa nhân từ Làm tươi tốt lòng ta Tự lòng sông lớn ấy Gió sau lưng thổi dậy Nghe Bạch Ðằng đi bên. (Năm 1976)

Chiến tranh luôn đi kèm với những mất mát và nỗi đau không cách nào nguôi ngoai. Vậy nên những vần thơ về kháng chiến được chính các nhà thơ từng được tiếp xúc trực tiếp với thời chiến viết nên, lại càng trở nên đáng quý và đáng trân trọng.

Hãy luôn ghi nhớ và bày tỏ lòng biết ơn với những vị anh hùng đã ngã xuống vì dân tộc bạn nhé, bởi có họ thì mới có được một Việt Nam hòa bình và giàu mạnh như ngày nay.

Đừng quên cập nhật liên tục những bài viết mới nhất, hấp dẫn nhất tại VOH Sống đẹp.